vợ chồng a phủ phan danh hiếu

Phân tích nhân vật Mị trong tác phẩm Vợ chồng A Phủ của Tô Hoài - Bài làm 1 của một bạn học sinh giỏi Văn trường THPT chuyên Lê Quý Đôn Lào Cai. Tô Hoài là nhà văn Hà Nội, sinh năm 1920, tự học mà thành tài. Khi bước vào tuổi "xưa nay hiếm", ông đã có gần 200 tác phẩm. Dẫn dắt vấn kiến nghị luận: Thông qua cuộc sống, định mệnh của Mị và A Phủ, " Vợ ông chồng A Phủ " đang mô tả mọi quý hiếm lúc này cùng nhân đạo thâm thúy diễn đạt góc nhìn sắc sảo với nhạy bén, cũng tương tự tấm lòng của nhà vnạp năng lượng nhắm đến con fan với cuộc sống. Vợ chồng A phủ là một trong những thành công lớn nhất của nhà văn Tô Hoài-là truyện ngắn rút ra từ tập" truyện Tây Bắc" viết vào năm 1953." Vợ chồng A Phủ" là tác phẩm lên tiếng vì con người, ca ngợi và bảo vệ con người và là một tác phẩm có giá trị nhân Vợ chồng A Phủ là câu chuyện kể về cuộc đời của hai nhân vật chính là Mị và A Phủ. Mị là một cô gái trẻ trung, xinh đẹp, có tài thổi sáo, bị A Sử bắt về làm vợ, làm dâu nhà thống lí Pá Tra để gạt nợ đã mấy năm. Mấy tháng đầu về làm dâu, đêm nào Mị cũng khóc. Hai người tới Phìn Sa, ở đấy không ai biết đấy là A Phủ, người ở nợ nhà thống lý. Người ta ngỡ đây là hai vợ chồng trong một nhà đông anh em ở bên kia dốc Lùng Chùng Phủng, nương vỡ được ít mà miệng ăn thì nhiều, anh em, vợ chồng phải chia ra, đem nhau đi tìm ăn nơi khác… materi pai kelas 4 semester 2 kurikulum merdeka. Phim ảnh Phim truyền hình Thứ hai, 7/7/2014 1546 GMT+7 1546 7/7/2014 Sáng tác từng giúp Tô Hoài nhận Giải thưởng Hồ Chí Minh đợt 1 năm 1996 đã được đưa lên màn ảnh nhỏ và trở thành một trong những phim kinh điển của Điện ảnh Cách mạng Việt Nam. Vợ chồng A Phủ là tác phẩm hay nhất trong tập Truyện Tây Bắc được nhà văn Tô Hoài viết năm 1952. Hai nhân vật chính là A Phủ và Mỵ - một đôi nam nữ thanh niên nghèo bị thống lý Pá Tra, một chúa đất gian ác, cấu kết với Pháp, áp bức bóc lột đến cùng cực. Hắn bắt Mỵ về làm vợ lẽ cho con trai là A Sử, và bắt A Phủ đến ở không công suốt đời để trả nợ. Khi A Phủ bị trói vì tội đánh mất trâu, sắp chết đau, chết đói, chết rét, Mị cắt dây trói cứu thoát anh. Hai người trốn đến Phiềng Sa rồi nên vợ nên chồng. Sau này, nhờ có Đảng lãnh đạo, A Phủ và Mỵ đã vùng dậy, đấu tranh để tự giải phóng, cùng nhân dân xây dựng một cuộc đời ấm no, hạnh phúc. Vợ chồng A Phủ là tác phẩm văn học nổi tiếng của cố nhà văn Tô Hoài. Bộ phim được chuyển thể từ truyện cũng nhận được phản hồi tích cực của khán giả. Nhắc tới tác phẩm Vợ chồng A Phủ, nhà văn Tô Hoài từng chia sẻ "Tôi viết truyện ấy từ những năm đi thực tế làm báo Cứu quốc. Đó là một câu chuyện gần như có thật của một đôi vợ chồng người Mông ở Phù Yên nay là Bắc Yên, tỉnh Sơn La. Ngày ấy, trên đường đi thực tế kháng chiến, tôi đã gặp cặp vợ chồng ấy đi ăn Tết Mông. Câu chuyện của họ cùng với những tư liệu anh em du kích kể là đề tài để tôi viết. Đến năm 1960, truyện chuyển thành kịch bản làm phim. Phim ấy, lấy nguyên cốt truyện, đầy đủ nhân vật". Nam chính A Phủ do NSND, đạo diễn Trần Phương thể hiện. Ông sinh năm 1930, là diễn viên – đạo diễn kiệt xuất của nền điện ảnh Việt Nam. Ngoài Vợ chồng A Phủ, Trần Phương từng tham gia đóng nhiều phim Cách mạng, để lại nhiều dấu ấn như Chị Tư Hậu, Tiền tuyến gọi, Vợ chồng anh Lực... Những bộ phim do ông đạo diễn cũng để lại nhiều tiếng vang, giành được nhiều giải thưởng lớn Hy vọng cuối cùng, Tội lỗi cuối cùng, Dòng sông trắng… Nam chính A Phủ do NSND, đạo diễn Trần Phương thể hiện. A Phủ là vai diễn đầu tiên trong cuộc đời của đạo diễn Trần Phương. Để vào vai thành công, ông đã phải học cách chăn bò, cưỡi ngựa của người Tà Sùa. Ba tháng ròng rã sống chung cùng gia đình anh hùng quân đội Sùng Phai Sình trên núi cao, cả Trần Phương và Đức Hoàn người vào vai Mị lúc bấy giờ gần như đã trở thành người Mông thực thụ. Các diễn viên đã cùng lên nương làm rẫy, cùng gùi nước đi bộ hàng mấy cây số về bản và cùng ăn ngô và có thể nói tiếng Mông sành sỏi trong quá trình thực hiện bộ phim. Ông từng chia sẻ "Họ cưỡi ngựa quanh năm mà không cần cương. Mình không quen với cách đó nên mình mẩy cứ xây xước hết, mấy lần suýt bị què chân. Nhưng khi bộ phim hoàn thành, mình cũng kịp trở thành một tay chăn bò, cưỡi ngựa cừ khôi không kém một chàng trai Mông nào". Cố nghệ sĩ Đức Hoàn 1937-2003 - người vào vai Mỵ - cũng giống như nam chính, vừa được biết tới với vai trò diễn viên, vừa là đạo diễn, biên kịch của nhiều bộ phim. Năm 1961, bà được đạo diễn Mai Lộc chọn vào vai cô Mỵ trong bộ phim Vợ chồng A Phủ kịch bản Tô Hoài. Đây là vai diễn đầu tiên cũng là vai diễn xuất sắc nhất của Đức Hoàn. Với vai diễn này bà đã nhận được Bông sen Bạc tại Liên hoan phim Việt Nam lần thứ hai năm 1973. Cố nghệ sĩ Đức Hoàn - người vào vai Mị - được nhận xét, đã trút bỏ hoàn toàn những kiểu cách của một tiểu thư khuê các Hà thành để hóa thân thành một cô gái Mông thực thụ. Từ cách đi đứng, ngoáy mông, vuốt tóc cho tới quấn khăn theo kiểu người Mông được Đức Hoàn thể hiện giống y như thật. Ngoài khả năng diễn xuất, cả NSND Trần Phương và cố nghệ sĩ Đức Hoàn đều nhận được rất nhiều sự ngưỡng mộ vì sở hữu ngoại hình đẹp. Cố nghệ sĩ Đức Hoàn trong vai Mị. Vợ chồng A phủ được chính tay Tô Hoài chuyển thể thành kịch bản và được "nhào nặn" bởi đạo diễn Mai Lộc. Với cốt truyện hấp dẫn, cảm động, bộ phim tiếp tục lôi cuốn người xem bằng hình ảnh đẹp của miền Tây Bắc và phần âm nhạc xuất sắc của nhạc sĩ Nguyễn Văn Thương. Bài hát Bài ca trên núi qua giọng hát của nghệ sĩ Kiều Hưng cũng nhận được sự yêu thích của đông đảo người yêu nhạc. Bộ phim do xưởng phim Việt Nam sản xuất và đã được trao giải thưởng Bông sen bạc trong Liên hoan phim Việt Nam lần thứ 2 năm 1973. Tiểu Uyên tổng hợp Tô Hoài Vợ chồng A phủ Dế mèn phiêu lưu ký Bạn có thể quan tâm Cũng giống như "Tôi thấy hoa vàng trên cỏ xanh", "Vợ chồng A Phủ" là bộ phim được chuyển thể từ tác phẩm văn học nổi tiếng của nhà văn Tô Hoài. Đây là truyện ngắn nằm trong tập Truyện Tây Bắc được nhà văn viết vào năm 1952 và mang về cho ông Giải thưởng Hồ Chí Minh đợt 1 vào năm 1996.Bộ phim đã được đón nhận nhiệt tình từ người xem sau khi được đạo diễn Mai Lộc đưa lên màn ảnh vào năm 1961 và trở thành một trong những phim kinh điển của Điện ảnh Cách mạng Việt Nam."Vợ chồng A Phủ" kể về câu chuyện của hai nhân vật A Phủ và Mỵ - một đôi nam nữ người dân tộc Mèo. Bối cảnh là cuối thời kỳ thuộc Pháp cho đến sau Cách mạng tháng 8 năm 1945. Mỵ đã bị thống lý Pá Tra, một chúa đất gian ác, bắt về làm vợ lẽ cho con trai hắn là A Sử. Trong khi đó, A Phủ bị bắt đến ở không công suốt đời để trả diễn A Phủ được thể hiện bởi cố nghệ sĩ nhân dân Trần Phương. Đây cũng là vai diễn điện ảnh đầu tiên trong sự nghiệp diễn xuất của diễn viên kiêm đạo diễn tài năng của điện ảnh Việt giống như NSND Trần Phương, vai Mỵ là vai diễn đầu tiên trong sự nghiệp diễn viên của cố nghệ sĩ Đức Hoàn. Đây cũng được đánh giá là vai diễn để đời của bà. Vào năm 1973, nghệ sĩ Đức Hoàn đã được trao Bông sen Bạc tại Liên hoan phim Việt Nam lần thứ sĩ Đức Hoàn trong vai đặc biệt, khi đạo diễn Mai Lộc quyết định đưa "Vợ chồng A Phủ" lên màn ảnh, ông đã nhận được sự giúp đỡ của nhà văn Tô Hoài trong vai trò chuyển thể kịch bản. Bộ phim đã giành giải Bông sen bạc trong LHP Việt Nam lần thứ 2 năm sau gần 60 năm kể từ khi được thực hiện, "Vợ chồng A Phủ" sẽ lần đầu tiên được trình chiếu trên nền tảng số với chất lượng HD. Đây là bộ phim thứ 2 được đến với khán giả trong Tuần phim Việt trên VTVGo. Bộ phim sẽ được chiếu vào 21h hôm nay 20/12.Lịch chiếu của Tuần phim Việt trên VTVGo*19/12, 21h Tôi thấy hoa vàng trên cỏ xanh*20/12, 21h Vợ chồng A Phủ*21/12, 21h Làng Vũ Đại ngày ấy*22/12, 21h Chị Tư Hậu*23/12, 21h Mẹ vắng nhà*24/12, 21h Bến không chồng*25/12 21h Thời xa vắng*26/12 Đừng đốt*27/12, 21h Chuyện của Pao*28/12, 21h Cánh đồng bất tận* Mời quý độc giả theo dõi các chương trình đã phát sóng của Đài Truyền hình Việt Nam trên TV Online và VTVGo! Đề ra Phân tích sức sống tiềm tàng của nhân vật Mị, thể hiện trong cảnh ngộ từ khi cô bị bắt về nhà thống lý Pá Tra cho đến đêm cởi trói cho A Phủ. THẦY PHAN DANH HIẾU – BIÊN HÒA ĐỒNG NAI BÀI LÀM Xem thêm Ai đã đặt tên cho dòng sông Ý nghĩa tiếng sáo trong Vợ chồng A Phủ Tô Hoài là nhà văn có sức sáng tạo dồi dào nhất trong làng văn chương Việt Nam. Trước Cách mạng, nhà văn nổi tiếng với những câu chuyện về loài vật như “ O chuột”, “Dế mèn phưu lưu ký”. Sau cách mạng nhà văn đã để lại rất nhiều dấu ấn về những tác phẩm viết về đề tài miền núi như “Truyện Tây Bắc”, “Miền Tây”… Trong tập Truyện Tây Bắc, nổi tiếng nhất là truyện Vợ chồng A Phủ. Tác phẩm để lại dư âm trong lòng người đọc không chỉ là cảnh sắc thiên nhiên núi rừng Tây Bắc với đêm tình mùa xuân của tuổi trẻ dập dìu tiếng sáo mà còn làm xúc động tâm hồn người đọc bởi sức sống tiềm tàng, mãnh liệt của nhân vật Mị – người con gái Mèo đã đứng lên đấu tranh với giai cấp thống trị miền núi, thoát khỏi kiếp đời nô lệ tủi nhục để trở thành con người tự do. HÃY ĐĂNG KÝ KÊNH YOUTUBE CỦA THẦY ĐỂ NHẬN BÀI GIẢNG. BẤM VÀO Mị xuất hiện ngay từ phần mở đầu tác phẩm, gây ám ảnh cho người đọc về một kiếp người héo hắt, tàn tạ “ chỉ biết cúi mặt, mặt buồn rười rượi”. Mỵ không hiện lên bằng chân dung mà hiện lên bởi số phận – một số phận đau buồn về kiếp người làm dâu gạt nợ trong nhà thống lý Pá Tra. Mị là cô gái trẻ đẹp là bông hoa ngát hương của núi rừng Tây Bắc. Mị tài hoa với điệu sáo làm say mê biết bao nhiêu chàng trai “ngày đêm thổi sáo đi theo Mị”. Mị yêu lao động “biết cuốc nương làm ngô”. Mị giàu lòng tự trọng và hiếu thảo với cha già. Khi biết tin bố sẽ gạt nợ mình cho nhà thống lý, Mị tha thiết van xin “bố đừng bán con cho nhà giàu”. Đó chính là vẻ đẹp về nhân cách và phẩm giá của người con gái với vẻ đẹp trong ngần thánh thiện như loài hoa ban thơm ngát giữa rừng. Nhưng có ngờ đâu sự hiểm độc của chính sách cho vay nặng lãi của bọn thổ ty phong kiến miền núi như một sợi dây oan nghiệt siết chặt lấy cuộc đời Mị. Đắng cay thay, đêm tình mùa xuân đẹp nhất của đời người con gái đã biến thành một đêm bi kịch, tủi nhục khi A Sử bắt cóc Mị về nhà thống lý. Và một buổi lễ cúng trình ma sáng hôm sau đó đã trói chặt cuộc đời Mị từ đấy. Lúc đầu mới về “làm dâu” để phản kháng lại cái sự vô lí ấy, Mị đã “hằng mấy tháng trời đêm nào Mị cũng khóc”. Khóc là biểu hiện của trạng thái tâm lí bị ức chế, không cam chịu, không chấp nhận cái sự thật nghiệt ngã ấy. Mị cũng đã từng nghĩ đến cái chết khi cầm nắm lá ngón về tự tử trước mặt cha nhưng vì thương cha già Mị không đành chết. Mị ném nắm lá ngón xuống đất như ném đi tuổi trẻ hạnh phúc của mình để quay về nhà thống lý chấp nhận kiếp sống trâu ngựa. Cái địa ngục trần gian ấy đã giam cầm cuộc đời Mị. Tuổi xuân của Mị bị vùi dập đến héo úa, lụi tàn trong căn buồng chỉ độc một cái cửa sổ nhỏ như lòng bàn tay “trông ra ngoài không biết sương hay là nắng”. Mị bị nô lệ hóa trở thành công cụ lao động. Nói đúng hơn là bị bóc lột sức lao động một cách tàn tệ trở thành một súc nô trong nhà thống lý. Cuộc sống của Mị bị vùi vào công việc cả đêm lẫn ngày “tết xong thì lên núi hái thuốc phiện, giữa năm thì giặt đay xe đay, cuối mùa thì đi nương bẻ bắp…”. Không chỉ vậy, Mị còn bị bóng ma thần quyền áp chế làm cho tê liệt về tinh thần, mất hết cả ý thức phản kháng. Nhà văn Tô Hoài đã nhiều lần so sánh Mị với con vật con ngựa, con trâu, con rùa. Từ đó Mị sống trong vô cảm, tâm hồn bị phong kín bởi sự lặng câm, băng giá “càng ngày Mị càng không nói, cứ lùi lũi như con rùa nuôi trong xó cửa”. Thử hỏi còn xót xa nào hơn thế nữa không ? Nhưng bằng cảm quan nhân đạo và tấm lòng yêu thương đồng cảm với số phận con người, Tô Hoài đã mang đến cho người đọc những thước phim quay chậm về sự bừng lên của một sức sống tiềm tàng, mãnh liệt đang âm ỉ cháy trong con người Mị. Bên ngoài là một cô Mị lầm lũi như cái bóng, như đã chết nhưng bên trong lại ẩn chứa lòng ham sống. Sức sống ấy như hòn than nhỏ đang bị vùi lấp trong cái vẻ ngoài lặng câm vô cảm. Vô tình cơn gió của đêm tình mùa xuân đã làm hồi sinh con người Mị, thức dậy cả một kí ức tươi đẹp và trỗi dậy một sức sống, lòng ham sống đến cuồng nhiệt nhưng cũng đầy bi kịch. Mùa xuân ở Hồng Ngài rộn rã âm thanh và màu sắc. Đó là tiếng cười của trẻ con, màu vàng ửng của cỏ gianh và gió rét dữ dội, là màu đỏ của những chiếc váy hoa phơi trên những mỏm đá xòe ra như những con bướm sặc sỡ và chắc chắn không thể thiếu được “tiếng sáo gọi bạn yêu lửng lơ bay ngoài đường”. Chính những hình ảnh và âm thanh ấy như một cơn gió thổi tung đám tàn tro đang vây quanh cuộc đời Mị. Đặc biệt qua nghệ thuật trần thuật và miêu tả đặc sắc, Tô Hoài đã mang đến cho người đọc một linh hồn đang cựa quậy hồi sinh đằng sau lớp xác giá băng. Chính tiếng sáo đã tác động đến Mị, góp phần thức tỉnh một tâm hồn nguội lạnh. Tiếng sáo như sợi dây vô hình nối mị với quá khứ và hiện tại làm sống dậy trong Mị một kí ức tươi đẹp. Nói đúng hơn nó đánh thức cái tài hoa trong Mị. Mị thổi sáo hay, thổi lá giỏi có biết bao nhiêu người mê ngày đêm thổi sáo đi theo Mị. Quá khứ đẹp nhưng đối lập với một hiện tại buồn mênh mang. Mị ngồi nhẩm thầm lời của người đang thổi sáo Mày có con trai con gái rồi Mày đi làm nương Ta chưa có con trai con gái Ta đi tìm người yêu Tiếng sáo làm Mị mạnh mẽ hơn, Mị thoát khỏi cái lớp xác vô hồn ấy bằng một hành động “nổi loạn nhân tính”. Mị tìm đến rượu, nhưng không phải để tìm vui mà là để giải sầu“ Mị uống ực từng bát rồi say”. Mị uống như nuốt căm hận vào lòng. Sự bất bình thường ấy đã nói lên tất cả. Sức chịu đựng có hạn, đã đến lúc cần bùng cháy. Rượu và tiếng sáo chính là chất men say đánh thức phần đời đã mất của Mị, giờ đây Mị không còn lặng câm nữa mà đã hồi sinh. Mị đang sống về ngày trước và không gì có thể ngăn được niềm vui sướng của Mị “lòng Mị đột nhiên vui sướng như những đêm tết ngày trước”. Còn gì hạnh phúc bằng khi mình tìm lại được chính mình ? Tô Hoài đã thâm nhập vào mê cung tâm trạng của người phụ nữ này và bằng lòng cảm thông yêu thương sâu sắc, nhà văn đã làm người đọc thực sự xúc động trước những biến đổi về tâm lý của Mị. Con rùa nuôi trong xó cửa ấy đã không còn lùi lũi nữa rồi. Nó đã phá vỡ cái bức tường vô cảm kia để khát khao tìm ra thiên đường mùa xuân của tuổi trẻ, của hạnh phúc. Mị nhận thức được chính mình, đó chính là ý thức về tuổi trẻ. Mị thấy mình còn trẻ “Mị trẻ lắm. Mị hãy còn trẻ. Mị muốn đi chơi”. Còn trẻ nghĩa là còn sức sống, còn khao khát sống, còn muốn yêu thương. Đúng là một cảm xúc bi kịch nhận ra mình còn trẻ khi mà tuổi xuân bị tước đoạt rồi và sống trong hoàn cảnh đáng thương này thì đúng là bi kịch. Nhưng dù đó là bi kịch thì Mị vẫn vui sướng vì dù sao Mị vẫn còn là chính mình với trái tim đầy khát vọng. Nhưng đớn đau thay, cùng với cảm xúc tìm lại được chính mình là một nỗi tủi thân. Tủi thân khi nghĩ về thực tại. Mị đã có chồng nhưng người chồng ấy không tình yêu, không hạnh phúc. A Sử – kẻ khốn nạn ấy đã giam hãm cuộc đời Mị và dẫu “không có lòng với nhau mà cũng phải ở với nhau”. Cảm xúc ấy như một gáo nước lạnh dội vào mặt, làm tan biến đi tất cả niềm vui sướng mà nãy giờ Mị chắt chiu dành dụm. Còn gì đau khổ bằng lấy một người mà mình không có tình yêu. Còn gì đau khổ bằng phải sống với một kẻ vũ phu chỉ xem mình là món đồ chơi và bị khinh rẻ như súc nô. Mị lại tưởng đến nắm lá ngón, Mị ước ao có nắm lá ngón trong tay lúc này Mị sẽ ăn cho chết ngay chứ không buồn nhớ lại nữa, nhớ lại nước mắt chỉ ứa ra. Muốn chết để giải thoát nỗi đọa đày, muốn chết để thoát khỏi bi kịch, điều này dễ thông cảm nhưng hơn hết Tô Hoài đã mang đến cho người đọc sự lột xác của Mị. Muốn chết chính là biểu hiện của sức sống. Khi Mị đã hồi sinh, khó có thể nào chấp nhận được thực tại cay đắng này. Nhưng không có nắm lá ngón, tâm trạng Mị chợt xoay sang hướng khác. Khi mà tiếng sáo gọi bạn yêu ngoài kia đang réo gọi, khi mà cả thiên đường hạnh phúc của mùa xuân phía sau ô cửa nhỏ kia đang nồng nàn, thôi thúc trái tim Mị. Mị không thể ngồi yên được nữa. Mị phải đứng dậy thôi! Mị hành động trong lặng lẽ. Lặng lẽ nhưng mãnh liệt. Mị đã thắp lên ngọn đèn trong căn phòng u ám, đặc cóng muộn phiền. Ngọn đèn như xua tan đi tất cả cái bóng tối u ám đang bao quanh cuộc đời Mị. Ngọn đèn thắp sáng tâm hồn Mị, đốt cháy cả nỗi khát khao vượt ra khỏi bức tường địa ngục để đến với thế giới ngoài kia đang dập dìu tiếng sáo. Tô Hoài đã diễn tả thật sâu sắc cái khát vọng cháy bỏng ấy của Mị bằng một đoạn văn ngắn nhưng giàu nỗi cảm thông chia sẻ. Câu văn ngắn, nhịp gấp thể hiện sự trỗi dậy mãnh liệt của nhân vật “Mị quấn lại tóc. Mị với tay lấy cái váy hoa vắt ở phía trong vách”. Mị hành động thản nhiên, dù Mị biết A Sử đang hiện diện trong căn buồng của Mị. Nhưng Mị không sợ, bóng ma thần quyền đã không thể nào làm gì được Mị nữa rồi. Nhưng đớn đau thay, sự độc ác tàn nhẫn của giai cấp thống trị miền núi đã dập tắt đi cái khát vọng và sự trỗi dậy đó của Mị. A Sử đã nhẫn tâm trói Mị bằng một thúng sợi đay, tóc Mị xõa xuống hắn cuốn luôn tóc Mị lên cột làm cho Mị không cúi không nghiêng đầu được nữa. Nhưng lúc này đây, Mị đâu còn sống bằng thể xác nữa mà Mị đang thực sự đang sống bằng tâm hồn. A Sử trói được thể xác của Mị nhưng không thể nào trói được tâm hồn của Mị. Bởi tâm hồn Mị đã vượt ra khỏi cái lỗ vuông bằng bàn tay kia để sống cùng đêm tình của tuổi trẻ. Thể xác Mị nằm đây, giữa bốn bức tường câm lặng nhưng hồn Mị đang “đi theo những cuộc chơi những đám chơi”. Tâm hồn Mị ngập đầy tiếng sáo, ăm ắp những kỷ niệm đẹp tươi. Có lúc tiếng sáo nhập cả vào hồn Mị làm Mị bừng lên như ngọn lửa gặp cơn gió lớn “Mị vùng bước đi”. Hành động này cho thấy Mị không hề biết mình đang bị trói hoặc có thể biết bị trói nhưng đã quên vì sức sống của tâm hồn lớn hơn nỗi đau thể xác. Nhưng rồi “tay chân đau không cựa được” lại đưa Mị về với hiện thực cay đắng “Mị thổn thức nghĩ mình không bằng con ngựa”. Nhưng sức sống ấy vẫn âm ỉ cháy dù đau đớn, tủi nhục. Suốt đêm, Mị lúc mê lúc tỉnh. Lúc mê thì sống trong “hơi rượu tỏa” cùng tiếng sáo mênh mang gọi bạn tình. Lúc tỉnh thì “nồng nàn tha thiết nhớ”. Có một chi tiết rất đắt khi nhà văn kết thúc diễn biến tâm trạng của Mị trong đêm tình mùa xuân. Đó là chi tiết Mị tỉnh dậy và nhớ lại câu chuyện người đàn bà bị chồng trói chết trong căn nhà này. Và Mị đã sợ, sợ chết “Mị cựa quậy xem thử mình còn sống hay đã chết”. Sợ chết là biểu hiện của lòng ham sống. Sức sống trong con người khốn khổ ấy đã không lụi tàn mà ngược lại vẫn mãnh liệt như những đợt sóng ngầm gầm gào trong lòng đại dương tưởng như không gì có thể dập tắt nổi. Nói như nhà văn Lỗ Tấn “Một tia lửa hôm nay báo hiệu một đám cháy ngày mai”. Chắc chắn đợt sóng ngầm ấy sẽ hứa hẹn trở thành đợt sóng thần của ngày mai. Đó là đêm cởi trói cho A Phủ một năm sau đó. Cũng là nạn nhân của chính sách cho vay nặng lãi, A Phủ trở thành trâu ngựa trong nhà Pá Tra. Hai số phận nhưng một cảnh ngộ. Họ là nô lệ, ăn đời ở kiếp cho lũ nhà giàu. Vì để hổ bắt mất một con bò, mạng sống của A Phủ bị treo lên giá chết. Án tử đang đợi A Phủ từng phút từng giây. Đó là những đêm mùa đông trên núi cao dài và buồn. Mị thức dậy và sống cùng ngọn lửa. Mị vẫn câm lặng trong nỗi cô đơn. Lửa cũng cô đơn. Hai kẻ cô đơn ấy sưởi ấm cho nhau. Nhìn thấy A Phủ bị trói đứng như thế, Mị cũng bình thản, bình thản một cách lạ lùng đến nhẫn tâm. Phải chăng “Sống lâu trong cái khổ Mị quen khổ rồi” nên Mị không còn nhận ra nỗi khổ của người khác. Và nếu đúng như vậy thì đớn đau thay Mị đã đánh mất đi lòng nhân ái mà trong bản thân người phụ nữ nào cũng có. Khi và chỉ khi dòng nước mắt của A Phủ “bò xuống hai hõm má đã xám đen lại”. Đó là dấu hiệu của sự chết đã xuất hiện trên khuôn mặt của người nô lệ ấy thì trái tim Mị mới bừng tỉnh, lòng thương người trong Mị mới trỗi dậy. Chính “dòng nước mắt lấp lánh ấy” đã làm tan chảy lớp băng giá lạnh trong lòng Mị. Lúc này đây, Mị mới thấm thía được nỗi cùng cực của kiếp người. Thương người, Mị lại thương mình. Mị hình dung lại chuỗi ngày ê chề dài dằng dặc của cuộc đời mình. A Phủ sao mà giống Mị thế, Mị cũng từng bị A Sử trói đứng thế kia, có nhiều lần khóc nước mắt rơi xuống miệng, xuống cổ không biết lau đi được». Mị chợt nhận ra người ấy giống mình về cảnh ngộ, mà những người cùng cảnh ngộ rất dễ cảm thông cho nhau. Mị căm phẫn khi nhớ lại người đàn bà bị trói chết trong căn nhà này. Mị càng căm phẫn càng uất hận “chúng nó thật độc ác”. Nhớ đến những chuyện ngày trước, trở về với hiện tại, Mị đau khổ cay đắng cho thân phận của mình “Ta là thân đàn bà chúng nó đẵ bắt ta về trình ma nhà nó rồi thì chỉ còn biết đợi ngày rũ xương ở đây thôi”. Nhưng Mị không có quyền bỏ mặc người khác. Lý trí mách bảo Mị rằng phải cứu A Phủ. Trái tim nhân ái của Mị đã thôi thúc Mị phải hành động. Nhưng Mị chợt chùn lại. Mị giằng xé dữ dội giữa mạng sống của mình và người đồng cảnh ngộ. Có thể Mị cứu được A Phủ nhưng chính Mị sẽ lại phải chết trên cái cọc ấy. Nhưng Mị nào đâu thấy sợ, bởi giờ đây, lòng thương người đã lớn hơn tất cả mọi nỗi sợ hãi. Mị táo bạo, Mị quyết liệt, Mị nổi loạn. Chính hành động cắt dứt sợi dây trói đã phần nào cho thấy vẻ đẹp sức sống của Mị. Đó chính là sức sống của cô gái Mèo dám dứng lên đương đầu với lũ ác thú. Dù còn là mang tính tự phát nhưng đó là dấu hiệu dự báo cho thấy được sự bừng tỉnh của những nô lệ đang đi theo tiếng gọi của cách mạng. Có ai ngờ được rằng Mị cắt đứt dây trói cho A Phủ cũng là vô tình cắt đi sợi dây oan nghiệt trói buộc cuộc đời mình. Mị đã làm một việc động trời nhưng đó là tất yếu. Cái giây phút Mị đứng lặng trong bóng tối là Mị sống trong sự ngổn ngang trăm mối. Lòng Mị rối bời với câu hỏi chạy theo A Phủ hay ở đây chờ chết? Cuối cùng tiếng gọi của tự do và sức sống tiềm tàng đã thôi thúc Mị phải sống và Mị vụt chạy theo A Phủ. Những bước chân của hai con người khốn khổ ấy băng qua đêm tối như đạp đổ uy quyền, thần quyền của bọn lãnh chúa phong kiến đương thời đã đè nặng tâm hồn họ biết bao nhiêu năm qua. Ta hãy nghe Mị nói sau bao nhiêu năm câm nín “A Phủ. Cho tôi đi!… Ở đây thì chết mất”. Đó là câu nói thể hiện niềm khao khát sống và khát khao tự do đến mãnh liệt. Và tiếng gọi tự do đang vẫy gọi họ phía trước, nơi họ đến là Phiềng Sa vùng đất hứa còn Hồng Ngài hôm nay còn chăng là những ngày buồn đau, tủi nhục. Đây không phải là hành động mang tính bản năng. Đúng hơn, cùng với sự trỗi dậy của ký ức, khát vọng sống tự do, đã khiến Mị chạy theo người mà mình vừa cứu. Mị giải thoát cho A Phủ và giải thoát cho cả bản thân mình! Hành động táo bạo và bất ngờ ấy là kết quả tất yếu của sức sống tiềm tàng khi người con gái yếu ớt dám chống lại cả cường quyền và thần quyền. Thành công của nhà văn khi miêu tả sự hồi sinh của nhân vật đó chính là nhờ vào nghệ thuật trần thuật hấp dẫn. Cách dựng cảnh sinh động. Cách lột tả nội tâm nhân vật nhiều bất ngờ thú vị. Ngôn ngữ mộc mạc giản dị. Tất cả đã tạo nên giá trị nhân văn sâu sắc của tác phẩm, góp phần mang đến cho người đọc sự xúc động mãnh liệt trước số phận của đồng bào miền núi Tây Bắc dưới ách thống trị của bọn chủ nô và lũ Tây đồn. Vợ chồng A Phủ đã để lại trong lòng người đọc vẻ đẹp của lòng nhân đạo, tình yêu thương đồng cảm sâu sắc với những kiếp người nghèo khổ. Qua nhân vật Mị nhà văn đã làm hiện lên vẻ đẹp của một sức sống tiềm tàng mãnh liệt của người phụ nữ miền núi nói riêng và người phụ nữ Việt Nam nói chung. Sức sống tiềm tàng ấy giúp nhà văn khẳng định được sức mạnh của tâm hồn con người Việt Nam và chân lí muôn đời ở đâu có áp bức bất công thì ở đó có sự đấu tranh để chống lại nó dù đó là sự vùng lên một cách tự phát như Mị. Đây chính là cuộc đấu tranh đi lên từ tự phát đến tự giác theo ánh sáng của cách mạng. Đó là giá trị nhân văn ngời sáng của tác phẩm. THẦY PHAN DANH HIẾU

vợ chồng a phủ phan danh hiếu